29.12.05

NHỮNG BÀI VIẾT ĐỒNG CẢM, QUÝ MẾN

Tác giả – Tác phẩm:
ĐỜI VẪN CẦN NHỮNG “LÁ XANH” (*) (**)

Nhà văn
Nguyễn Khắc Phê

Trong số không nhiều những tác phẩm dự cuộc thi tiểu thuyết 1998 – 2000 của Hội Nhà văn Việt Nam vừa được chọn in, có tiểu thuyết “Có một nơi lá mãi xanh” của Trần Xuân An. Sinh ra ở Thành Nội, Huế từ 43 năm trước, nhưng Trần Xuân An xa Huế dễ đã gần hai chục năm. Vì mưu sinh và vì số phận trôi giạt, chàng sinh viên Huế Trần Xuân An từng lên Tây Nguyên dạy học, rồi trở về làng quê nóng bỏng gió Lào và cát trắng của Quảng Trị, và nay “đứng chân” tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng là một cây bút “mới” trong làng văn xuôi như Nguyễn Việt Hà (tác giả tiểu thuyết đang gây dư luận, “Cơ hội của Chúa”); chỉ khác là trước đó Trần Xuân An đã là tác giả của bảy tập thơ (“Nắng và mưa” , 1991; “Hát chiêu hồn mình” , 1992; “Tôi vẫn ở trên đường” , 1993; “Lặng lẽ ở phố” “Kẻ bị ném vào bão” , 1995; “Hát với đời ơi thương mến” , 1996; “Quê nhà yêu dấu” , 1998). Có lẽ vì thế tiểu thuyết của anh đậm chất thơ. Đề tài không mới, cũng không là “đề tài lớn” – chuyện ngoại tình của Niên, một thầy giáo trở thành nhà văn, với Cúc Tần, một cô giáo trung học dạy Việt văn, ba mươi hai tuổi, độc thân, xinh đẹp, thông minh, dịu dàng, cũng là “đồng chủ quán” cà phê “Lá Xanh” . “Có một nơi lá mãi xanh” còn là một cuốn tiểu thuyết về một tiểu thuyết: chuyện bản thảo tiểu thuyết đầu tay của Niên từng bị đồng nghiệp xoi móc, “đánh đập”, được viết lại, nâng cao, sau mười năm trải nghiệm cuộc đời của chính tác giả… Và những ngẫu nhiên không thiếu trong cuộc đời đã khiến Niên hội ngộ với những đồng nghiệp từng “đánh đập” anh [trong các cuộc kiểm thảo] ngày trước trong một tình thế khá éo le: cả Cúc Tần và đôi vợ chồng chủ quán “Lá Xanh” đều là người thân ruột rà với cô hiệu trưởng và vị bí thư chi bộ nơi Niên dạy học. Là Cháu ruột cô hiệu trưởng, cô bé Cúc Tần hồi 13 tuổi đã mê mải lén đọc tập bản thảo tiểu thuyết “Những mùa thơ dại” bị “tịch thu”. “Một kỉ niệm buồn đau và buồn cười xảy ra năm anh hai mươi ba tuổi! Chả là, với bản thảo mười tám tuổi, anh dẫu sao vẫn còn ấu trĩ lắm. Sự ấu trĩ còn ở người tịch thu bản thảo nữa. Bây giờ, những tấm lòng đã rộng mở, những con mắt đã sáng hơn, khoan dung hơn… Năm tháng qua đi, những bức xúc cay đắng cũng trở thành kỉ niệm êm đềm, ngọt ngào. Thời gian có lòng nhân hậu của nó…” (tr. 65) .
Thực ra thì có lẽ không phải nhờ “thời gian nhân hậu” mà chính nhờ cách nhìn đời đôn hậu của tác giả nên cuốn sách, dù nói đến những thành bại, lầm lỗi trong cuộc đời, vẫn có nhiều trang đượm chất thơ, gieo thêm niềm tin yêu vào cái đẹp, vào sự hướng thiện của con người cho bạn đọc.
Những trang viết của Trần Xuân An kĩ lưỡng, tâm lí nhân vật khá tinh tế.
Có thể nói phần nào cuộc đời thăng trầm của tác giả đã được tái hiện trong tác phẩm. Sức cuốn hút của tác phẩm không phải ở tính bạo liệt, gay cấn như một số tác phẩm ăn khách gần đây, mà chính ở nơi “lá xanh”, chính ở vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật – những con ngưởi luôn trăn trở, trung thực đối diện với chính mình để không ngừng hoàn thiện. Xung đột của Niên cũng như Cúc Tần và cả những nhân vật phụ không phải là với kẻ đối địch, mà chủ yếu với chính bản thân mình. Cuộc đấu tranh nội tâm không ồn ào ấy chính là “đất” của tiểu thuyết nhưng đồng thời cũng là thử thách đối với nhà tiểu thuyết. Trần Xuân An đã dám chấp nhận “thử thách”, và đây chỉ là cuốn tiểu thuyết đầu tay (***) của anh. Được biết anh vừa gửi bản thảo cuốn tiểu thuyết thứ hai dự cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Hi vọng tác phẩm mới của anh sẽ có những bước thành công mới.

Huế, 8-1999
NGUYỄN KHẮC PHÊ

(*) Đọc tiểu thuyết “Có một nơi lá mãi xanh” của Trần Xuân An, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
(**) Bài viết đã đăng trên Báo Thừa Thiên – Huế, số 1520, ra ngày thứ tư, 22-9-1999; trên Tạp chí Cửa Việt, số 61, tháng 10 năm 1999, tr. 78 – 79.
(***) “Có một nơi lá mãi xanh” là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tác giả được xuất bản, nhưng thật ra, bản thảo tiểu thuyết hoàn chỉnh đầu tay của Trần Xuân An là “Mùa hè bên sông” (bản 1997 & bản 2003).
TXA bổ sung thêm 2 chú thích (**) và (***).


____________________________________




Tác giả – Tác phẩm:
ĐI TÌM MỘT CHỐN LÁ XANH
(*)

Nguyễn Tiến Đạt

Trong những năm gần đây Trần Xuân An là một hiện tượng trong giới văn chương – hiện tượng cả trong đời sống và sức viết. Chỉ trong vòng mười năm anh đã cho ra đời bảy tập thơ: “Nắng và mưa”; “Hát chiêu hồn mình”; “Tôi vẫn ở trên đường”; “Kẻ bị ném vào bão”; “Hát với đời ơi thương mến”; “Quê nhà yêu dấu” … và hai tiểu thuyết dự thi giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam: “Có một nơi lá mãi xanh” “Mùa hè bên sông” . Phải nói là sức viết của Trần Xuân An như sóng vỗ bờ, miệt mài cùng ngày tháng. Tác phẩm cũng như chính cuộc đời anh phong trần gian khổ trên hành trình đời người.
Ở Trần Xuân An hội đủ yếu tố của con người Miền Trung. Quê Quảng Trị, sinh ra tại Huế, rồi lên dạy học ở Tây Nguyên, bị “choáng”, “sốc” [“va chạm tư tưởng”], lại về quê nhà Quảng Trị cùng vợ may vá kiếm sống, rồi vào Sài Gòn lập nghiệp. Bốn mươi ba năm đi qua đời anh với biết bao nỗi cơ cực bám riết: chiến tranh, bão lũ, bệnh tật, mưu sinh. Ở đâu, dù trong hoàn cảnh nào, dẫu bất hạnh đến cùng cực, từ cơn “choáng”, “sốc”, cho đến khi sống vững chắc ở Sài Gòn, đối với anh, tất cả trước mặt là trang giấy trắng cần phải gieo chữ, cần phải vượt qua. Trần Xuân An đã làm được với tất cả bình sinh của mình. Văn chương cũng như cuộc đời, cái đích của Trần Xuân An tìm đến là lòng nhân bản, là sự cao cả trong đời sống, là phẩm chất kiêu ngạo của con người trước vực thẳm.
Trước khi đến với tiểu thuyết, một lĩnh vực cần huy động tối đa vốn sống, vốn kiến thức thâm hậu, Trần Xuân An là thi sĩ của những miền mây sương trắng, đồng vọng chiều sáo trúc thôn quê với nỗi buồn sâu thẳm, của những cơn đau vùi trong cát, vì thế tiểu thuyết của anh cũng giàu chất thơ, tinh tế, nhạy cảm đường tơ. Tôi đọc “Có một nơi lá mãi xanh” trong men say như thế. Nó có hương vị ngọt ngào và đắng đót như li cà phê năm nào Trần Xuân An ngồi nhấp môi một mình ở Đa Kao trong chiều mưa với nỗi lòng cô quạnh [thương nhớ] cố hương… Không như một số tiểu thuyết gần đây đề cập đến những vấn đề nổi cộm của xã hội, những cơn đau gió chướng thị trường để rồi chiêm nghiệm những triết lí siêu hình, Trần Xuân An tần ngần nhẹ bước vào một thế giới riêng tư của lớp trẻ, tinh tế với từng cảm xúc để rồi khái quát lên một vấn đề lớn hơn, đó là: Con Người.
Câu chuyện của Niên, một nhà giáo, một nhà văn đã có cuộc sống gia đình riêng, đem lòng yêu một cô giáo, cũng là chủ quán cà phê “Lá Xanh”, có cái tên rất thơ mộng : Cúc Tần. Thế nhưng đây không phải là mô-típ [motif] chuyện tình tay ba, tay tư ta thường hay gặp. Trần Xuân An đi vào một quan hệ biện chứng, đó là văn chương và cuộc đời, là hình trình đi đến cái đẹp đích thực đang ẩn hiện trong cuộc sống quanh ta, đôi lúc vô tình ta không nhận thấy để rồi lao phóng kiếp sống theo ảo ảnh. Cô bé Cúc tần mười ba tuổi năm xưa từng mê đắm một tiểu thuyết viết tay và thương thầm nhớ trộm tác giả. Cho đến lúc gặp nhau thì Niên đã có gia đình riêng, và không ngờ do cuốn tiểu thuyết ấy anh bị đày đọa cả đời mình. Thế rồi, trên bước đường sóng gió xô giạt, anh đã gặp lại chính những người đã một thời đày đọa tác phẩm cũng như cuộc đời anh, trong đó có người thân của Cúc Tần. Và chính họ đã nhận ra những giá trị đích thực của tác phẩm. Dù thế nào đi chăng nữa, đối với Niên, tất cả là kỉ niệm, cho dẫu có nhói lòng nhưng trên tất cả vẫn là sự nhân hậu của thời gian, là cái đẹp luôn phải đổi bằng giá của khổ đau.
Mọi xung đột trong tác phẩm dưới bàn tay nghệ thuật của Trần Xuân An được xếp đặt và giải quyết một cách khép léo. Ở đây không có sự đổ vỡ của hạnh phúc mà chỉ là sự vật vã đi tìm hạnh phúc đích thực. Xung đột của vợ chồng Niên chỉ là những đợt sóng để vút lên những thanh âm kì diệu của biển cả. Là một nhà văn, Niên khát khao tìm kiếm cái đẹp, cái cao thượng. Nhiều lúc anh muốn nói to lên, xé rách tấm màn nội tâm vướng víu: “Tác phẩm của tôi, ấy là con đường tôi chọn lựa lâu rồi! Con đường tôi chọn lựa lát bằng những trang sách của đời tôi, những trang sách nhỏ bé mang khát vọng vĩnh cửu. Ai sẽ cùng tôi đi trên con đường riêng đó? … Tôi có quyền đập vỡ rồi ném Cái Nghĩa với trái tim đã nung đỏ thành thỏi sắt vào sọt rác? Con đường của gã đàn ông làm nhà văn mãi mãi là con đường lẻ loi, rất riêng, dẫu đi cùng với ai đi nữa!” (tr. 214).
“Có một nơi lá mãi xanh” là cuốn tiểu thuyết về một cuốn tiểu thuyết, là cuộc đời và nghệ thuật với những khoảng cách tưởng chừng không vượt nổi, nhưng những điều ta tưởng là khoảng cách ấy lại rất gần gũi thiêng liêng, phải đánh đổi cả đời mình mới giành giật được. Ở đây, ta thấy bóng dáng Trần Xuân An với những đêm thức trắng cùng trang giấy. Cuộc vật lộn trong mỗi bản thân con người trên hành trình hướng thiện được Trần Xuân An thể hiện một cách nhạy cảm, tài tình. Gần như từng nỗi đau, mỗi nếp nghĩ, những rung động nhẹ nhàng anh đều gọi được tên. Mỗi trang sách của Trần Xuân An là mỗi góc cạnh của nội tâm nhân vật, nơi đó có bóng mát tâm hồn tuổi trẻ mang đậm thân phận người đời trước tình yêu cuộc sống. Có thể nói đây gần như là một cuốn tự truyện của Trần Xuân An (***), của những người sống chết cùng trang viết. Trên một nền tảng kiến thức rộng, mọi ngõ ngách được Trần Xuân An hóa giải, mang đậm chất thơ, vì thế dễ đi vào lòng người. Cuộc đấu tranh nội tâm là một đề tài khó của tiểu thuyết; cày xới trên mảnh đất nội tâm ấy là một thử thách lớn, lại được thể hiện một cách nhẹ nhàng, tinh tế và đầy linh cảm như Trần Xuân An là một sự sáng tạo độc đáo. Trong thử thách tiểu thuyết ấy, đã không ít tác giả bị sa vào những chuyện tình nhạt nhẽo, hay lên gân thô cứng.
Với một sức viết mãnh liệt như Trần Xuân An, cần mẫn sáng tạo với từng con chữ, chúng ta có quyền hi vọng ở anh với những thành công mới. Trong thế giới của nhà văn Pautôpxki (Pautovsky), có một con người suốt đời quét bụi cho thợ kim hoàn với mơ ước là một ngày sẽ đúc được bông hồng vàng dâng tặng người yêu. Tôi tin Trần Xuân An là như vậy [,ở ý nghĩa khái quát của hình tượng: Cõi Đời, Lao Động và Con Người].

NGUYỄN TIẾN ĐẠT

(*) Đọc tiểu thuyết “Có một nơi lá mãi xanh” của Trần Xuân An, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
(**) Bài viết đã đăng trên Báo Quảng Trị, số 1012 (cuối tuần), ra ngày thứ sáu, 05-11-1999 (28 tháng 9 Kỉ mão), tr. 5.
(***) Năm đầu tiên của quãng đời giáo viên, TXA. dạy học ở Trường PTCS. Lộc Ngãi, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Xin xem “Ngôi trường tháng giêng” (TXA. chú thích).


________________________________




NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG
& SEN ĐỎ, BÀI THƠ HÒA BÌNH


“Ngôi trường tháng giêng” “Sen đỏ, bài thơ hòa bình”, hai cuốn tiểu thuyết cùng tác giả Trần Xuân An; Nxb. Thanh Niên, 6-2003. Đây là tác phẩm thứ chín và thứ mười của Trần Xuân An sau một loạt thơ, trường ca xuất bản trong vòng mười năm qua. Quê gốc Quảng Trị (sinh năm 1956), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế (1978), tác giả hiện ở TP. Hồ Chí Minh, đang sức viết mạnh, với 5 bản thảo hoàn tất chờ in: “Mùa hè bên sông” (tiểu thuyết), “Thơ những mùa hương” (thơ), “Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên” (thơ), “Nước mắt có vị ngọt” (tập truyện), “Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường” (truyện - sử kí, 4 tập).

GIAO HƯỞNG

(Báo Thanh Niên, số 178 (2743), ra ngày thứ sáu, 27-6-2003 (28-5 Quý mùi), tr. 9).


__________________________________




TRẦN XUÂN AN VỚI “MẮT XANH” ĐỌC THƠ (*) (**)

Chu Thụy


Có người đọc thơ như một thú vui, cứ trải lòng ngõ hầu tìm một tri âm bên ngoài độ rung của câu chữ. Có người đọc thơ bằng sự nóng ấm của cảm xúc nhưng vẫn theo một lối bình xét trong tương quan đối chiếu, với tố chất của một nhà phê bình thực thụ. Trần Xuân An, trong “Ngẫu hứng đọc thơ” (*), đã kết hợp nhuần nhị cả hai “cách” ấy: anh chọn những người thân quen, có mối quan hệ riêng để đọc, nhưng là đọc một cách kĩ lưỡng, sâu, đến độ có cảm giác anh đang muốn “tổng kết” cả sự nghiệp viết lách của ai đó…
Không kể hai phụ lục thể hiện sự cảm nhận về thơ lục bát và bàn đến mối quan hệ giữa sáng tạo và tiếp nhận đồng sáng tạo, phần còn lại, với chín tác giả, Trần Xuân An dành hết gần 180 trang sách để giới thiệu, bình xét, tranh luận, giãi bày… về tác phẩm của họ. Đó là thơ Nguyễn Công Bình, Võ Văn Luyến, Nguyễn Tiến Đạt, Phan Văn Quang, Nguyễn Tấn Sĩ, Võ Nguyên, Tần Hoài Dạ Vũ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hà Linh Chi – những người ít nhiều có mối quan hệ thân sơ (thế hệ đàn anh, bạn bè khắp nơi, quê nhà Quảng Trị) của Trần Xuân An. Cách mà Trần Xuân An chia sẻ cảm xúc về thơ kể cũng lạ: với mỗi tác giả, anh phân ra nhiều trường đoạn, mỗi trường đoạn gói ghém một lối tư duy về thơ hay chí ít cũng “nói” về một giai đoạn sáng tác, một chủ đề nổi bật nào đó. Đó là thế mạnh mà Trần Xuân An – một nhà thơ quê gốc Quảng Trị đã xuất bản các tập “Nắng và mưa”; “Hát chiêu hồn mình”; “Tôi vẫn ở trên đường”; “Lặng lẽ ở phố”; “Kẻ bị ném vào bão”; “Hát với đời ơi thương mến”; “Quê nhà yêu dấu” … – đã khai thác đưa vào tập sách mới của mình: “Ngẫu hứng đọc thơ” .
Nhưng điều quan trọng là tác giả đã “đọc” được những gì? Một Nguyễn Công Bình nhiều biểu hiện và thay đổi với “Người gánh bóng mình”, “Lời quả”, “Một người phía chân trời” ; Võ Văn Luyến vẫn đằm thắm, tình tứ qua “Trầm hương của gió” ; nhà thơ quá cố Nguyễn Tiến Đạt sắc sảo, góc cạnh và đầy dự cảm qua “Người đi nhặt cuội”, “Khúc hát tình tang” ; Phan Văn Quang gắn liền với “trường phái phong trần” nên thơ có chỗ bướng bỉnh, sâu; Võ Nguyên, cây bút văn xuôi đang muốn khẳng định mình ở địa hạt thơ; Hà Linh Chi bộc trực, “lì lợm” trong thơ như bản tính ngoài đời… Mỗi tác giả, Trần Xuân An có giọng viết không hề giống nhau; nhiều chỗ khiến độc giả xúc động bởi những kĩ niệm cũ được nhắc lại.
Nhưng phải đến phần phê bình thơ Nguyễn Tấn Sĩ, Tần Hoài Dạ Vũ, Hoàng Phủ Ngọc Tường thì Trần Xuân An mới thật sự thể hiện rõ nhất năng lực tư duy trong phê bình thơ. Không phải với những nhà thơ này Trần Xuân An đã lược bớt đi những cảm xúc riêng tư, mà là cách anh xâu chuỗi cảm nhận, thậm chí mạnh dạn tranh luận. Với thơ Nguyễn Tấn Sĩ, Trần Xuân An tự tin “chia” thành từng phần hợp lí, sáng tạo về cấu trúc ( “tình yêu đương”, “lính giải phóng” trong “Mặt trời và cơn khát”; “xuân”, “xanh”, “cõi sống”, “cứu láng giềng” trong “Lời hát khẽ” ). Với Tần Hoài Dạ Vũ (tức nhà văn Nguyễn Văn Bổn, quê gốc Quảng Nam, thầy dạy học của Trần Xuân An hồi lớp 10), anh đã sáng tạo khi “chiết tự” bút danh “Tần Hoài Dạ Vũ”, để dẫn đưa độc giả về lối cảm nhận của mình. Từ tứ thơ trong bài “Bạc Tần Hoài” (Bến sông Tần Hoài) của Đỗ Mục đời Đường – Trung Quốc mà chính Nguyễn Văn Bổn từng có ý khi chọn bút danh, Trần Xuân An quả quyết rằng thơ của tác giả này cũng chia ra làm hai mảng: “Tần Hoài” (tâm trạng của người dân mất nước theo điển cố, tức thơ phản chiến) và “Dạ Vũ” (mưa đêm, tức thơ yêu đương). Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường? Trần Xuân An đã “ngạc nhiên” với việc nhiều nhà phê bình ít nói về mảng thơ kháng chiến của nhà văn, nhà thơ họ Hoàng Phủ, và anh bắt đầu khai thác sâu hơn theo hướng này. Tất nhiên, cuối cùng Trần Xuân An vẫn phải quay về với những bài thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đầy hình ảnh, được nhiều người chuyền tay, được phổ nhạc… nhưng cách “đặt vấn đề” ban đầu như thế đã gây sự chú ý. Một thủ thuật trong phê bình chăng?
Rất có thể, Trần Xuân An đã tốn nhiều thời gian nghiền ngẫm thơ và theo dõi nhiều giai đoạn sáng tác khác nhau của các nhà thơ ấy. Vì thế, càng đọc “Ngẫu hứng đọc thơ” , tôi càng thấy Trần Xuân An quả có “mắt xanh” – đọc vừa có nghề, có lửa, lại sâu sắc, tinh. Cách chọn dẫn chứng thơ thật sát cho từng bài viết, lấy ra được cái thần ở mỗi nhà thơ, của Trần Xuân An khiến người đọc thi thoảng giật mình, dù họ cũng đã đọc phần lớn những tác giả mà anh chọn để phân tích. Khi giới thiệu về Tần Hoài Dạ Vũ, anh đã không thể bỏ sót bài “Chiều mưa uống rượu” mà nhiều lần tôi nghe học trò của nhà thơ vẫn ngâm nga mỗi khi có dịp. Hoàng Phủ Ngọc Tường thì vẫn “Bài ngâm đùa chơi”, “Về chơi với cỏ” … ; Phan Văn Quang với “Hoang mang” khá quen thuộc (“Bên suối lặng mình soi đáy nước / Trong trời chiều sinh động hai ta / Bóng nhìn ta và ta nhìn lại / Giữa thinh không hai đứa khóc òa”)
Cũng phải nói rằng, nhiều chỗ Trần Xuân An đã để cho cảm tính lấn át những phân tích sắc sảo vốn được anh khởi đi ngay từ đầu trang viết (thế mới là “ngẫu hứng” chăng?). Nhưng có thế nào anh cũng kịp cho độc giả của mình sự cảm nhận độc đáo của mình. Nếu với thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Tấn Sĩ, Nguyễn Tiến Đạt, Tần Hoài Dạ Vũ, Hà Linh Chi… bạn từng có cách cảm nhận riêng, thì hãy đọc thêm “Ngẫu hứng đọc thơ” để biết rằng đã có một người nữa cảm nhận rất khác, rất trải lòng và đôi chỗ thành thực đến thái quá…

CHU THỤY

(*) Đọc “Ngẫu hứng đọc thơ” , phê bình thơ, tập sách của Trần Xuân An, Nxb. Văn Nghệ TP. HCM., 2005. Bài đã đăng trên Báo Quảng Nam, số 1694 (4916), cuối tuần, ra ngày thứ bảy, 08-10 – chủ nhật 09-10-2005.
(**) Cảm ơn hai bạn Nguyễn Đăng Chín - Hồ Thị Nguyệt Thanh đã gửi tặng tờ báo này. TXA.





___________________________________________


NHỮNG BÀI, NHỮNG MỤC VÌ CÓ TÍNH CHẤT TRAO ĐỔI NHẤT THỜI HOẶC THƯ TÍN RIÊNG TƯ, như đã thông báo từ rất nhiều tháng trước, ĐÃ ĐƯỢC LƯU GIỮ VĨNH VIỄN, TUY KHÔNG HIỂN THỊ.

Xin xem danh mục vốn có của trang phụ 1 như sau:



Date Post Title

2/05/2006 Edit Draft / forever / DON'T DELETE : TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI TRUY CẬP
Phan Huyên Đình Draft Delete

1/20/2006 Edit Draft / forever / DON'T DELETE : THƯ GỬI NHÀ VĂN NGUYỄN QUÝ ĐỨC (có bổ sung)
Phan Huyên Đình Draft Delete

1/11/2006 Edit Draft / forever / DON'T DELETE :TÌM GIÚP BẢN XẾP CHỮ VI TÍNH BẢN THẢO BỊ “THẤT LẠC”
Phan Huyên Đình Draft Delete

1/09/2006 Edit Draft / forever / DON'T DELETE : TẠP CHÍ GIAO ĐIỂM CHÍNH THỨC LÊN TIẾNG
Phan Huyên Đình Draft Delete

1/08/2006 Edit Draft / forever / DON'T DELETE : CẦN LÀM RÕ THÊM “ĐÔI ĐIỀU CẦN LÀM RÕ”
Phan Huyên Đình Draft Delete

1/08/2006 Edit Draft / forever / DON'T DELETE : TẠP CHÍ GIAO ĐIỂM ĐÃ ĐĂNG TẢI "ĐỀ NGHỊ TRẢ LỜI CÔNG KHAI ..." & "ĐIỀU CẦN LÀM RÕ"
Phan Huyên Đình Draft Delete

1/07/2006 Edit Draft / forever / DON'T DELETE : ĐỀ NGHỊ TRẢ LỜI CÔNG KHAI ĐIỀU CẦN LÀM RÕ TRÊN BÁO CHÍ
Phan Huyên Đình Draft Delete

1/03/2006 Edit HÒA BÌNH 6 ! CHÀO MỪNG & ƯỚC VỌNG
Hiển thị vĩnh viễn.

Phan Huyên Đình View Delete

12/31/2005 Edit Draft / forever / DON'T DELETE : TÌM KIẾM QUA MSN, GOOGLE, YAHOO SEARCH ...
Phan Huyên Đình Draft Delete

12/29/2005 Edit NHỮNG BÀI VIẾT ĐỒNG CẢM, QUÝ MẾN
Hiển thị vĩnh viễn.

Phan Huyên Đình View Delete


KÍNH MẠN PHÉP LƯU GIỮ Ở PHẦN "DRAFT", VÌ KHÔNG CÓ NƠI NÀO THUẬN TIỆN HƠN.

KHI CẦN THIẾT, CÓ THỂ NHANH CHÓNG CHO HIỂN THỊ NHỮNG BÀI, NHỮNG MỤC NÀO ĐÓ, TUỲ THEO YÊU CẦU.


Trân trọng và thành thật biết ơn.
TXA.

20 : 49', 02-12 HB6 (2006).














___________________________
___________________________


LINKs: NƠI LƯU NHỮNG TỆP THÔNG TIN VỐN HIỆN HỮU Ở 3 TRANG PHỤ NÀY TRƯỚC NGÀY 02-12 HB6 (2006)

Vui lòng đừng bấm vào những links dưới đây, bởi ở 3 trang web/docs, theo các đường dẫn ấy, hầu hết là những tệp thông tin trao đổi nhất thời và những thư tín cá nhân. Ngoài ra, cũng có những bài viết đích thực là tác phẩm (sáng tác, nghiên cứu, phê bình hoặc bài báo) của các nhà văn, nhà báo Nguyễn Khắc Phê, Giao Hưởng, Nguyễn Tiến Đạt, Chu Thụy, của Ban Việt ngữ BBC, của Trần Xuân An, những bài đó đã và sẽ ở dạng hiển thị vĩnh viễn, trên 3 phụ trương (phụ lục) hoặc ở các trang web khác thuộc Web. này.

Thành thật cảm ơn.



07-12 HB6 : TRANG PHỤ 1:

http://docs.google.com/View?docid=dc9fgpkh_29fvb2vm (changed link)
http://docs.google.com/View?docid=dc9fgpkh_29fvb2vm (changed link)

http://docs.google.com/View?docid=dc9fgpkh_68hfrrs2
http://docs.google.com/View?docid=dc9fgpkh_68hfrrs2

07-12 HB6 : TRANG PHỤ 2:

http://docs.google.com/View?docid=dc9fgpkh_41dwgtx5
http://docs.google.com/View?docid=dc9fgpkh_41dwgtx5

07-12 HB6 : TRANG PHỤ 3:

http://docs.google.com/View?docid=dc9fgpkh_51gc7fs5
http://docs.google.com/View?docid=dc9fgpkh_51gc7fs5


11 : 31' & 14 : 50, ngày 07-12 HB6;
6 : 39', ngày 08-12 HB6 (2006)
tại TP.HCM., Việt Nam

TXA.